Ngày nay, hình thức ương dưỡng tôm giống trước khi nuôi đã được người dân áp dụng khá phổ biến. Trong đó, có một số hình thức mang lại hiệu quả như ương tôm siêu thâm canh 3 giai đoạn, ương trong ao đất, ương trong hệ thống bể xi măng, nhà vèo…

Ương siêu thâm canh 3 giai đoạn

Đây là phương pháp được áp dụng khá phổ biến tại Ecuador và các trại nuôi tôm ở miền Nam và miền Trung của Mexico. Hệ thống 3 giai đoạn sử dụng ương raceways trước khi thả tôm giống vào ao nuôi thương phẩm, giúp tăng năng suất vụ nuôi 20 – 30% và hạ chi phí sản xuất; đồng thời, tránh những tổn thất do virus đốm trắng gây ra. Thay vì thả trực tiếp tôm giống PL10 – 12, các trại giống sẽ ương tôm tới cỡ >PL45 giúp giảm thời gian trong ao nuôi thương phẩm lên tới 20 – 30 ngày và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) 10 – 30%.

Cụ thể: ương nauplius với mật độ 300 – 350 lên PL7 với cỡ 1,5 – 2 mg/con trong các bể ương có đáy hình chữ U hoặc chữ V, thời gian 12 – 14 ngày, sau đó chuyển sang giai đoạn 2. Trong giai đoạn này, thức ăn được cung cấp chủ yếu là tảo tươi và một phần Artemia. Giai đoạn này thường kéo dài 7 – 8 ngày, từ tôm cỡ PL7 với mật độ ương 80 PL/lít đến khi tôm PL14, cỡ 3 – 5 mg/con, thường ương trong các bể có đáy bằng. Giai đoạn 3, tôm giống được chuyển sang các ao lót bạt, thời gian khoảng 15 – 17 ngày, từ cỡ PL14 với mật độ ương 16 PL14/lít tới tôm đạt cỡ 200 mg/con.

Khi tôm chuyển sang giai đoạn Postlarvae, thức ăn được cung cấp chủ yếu là Artemia và thức ăn tổng hợp. Hệ thống ương siêu thâm canh 3 giai đoạn có lợi ích với toàn bộ chuỗi cung cấp. Hệ thống ao ương chịu sự kiểm soát liên tục chất lượng nước và sức khỏe tôm. Thức ăn được tối ưu hóa và sử dụng hiệu quả hơn. Giúp sản xuất ra tôm giống có sức đề kháng mạnh, thích nghi được với môi trường ao nuôi. Dẫn đến tỷ lệ sống của tôm tốt hợn ở những ngày đầu thả nuôi (đạt > 90%) và làm giảm tối đa việc bùng phát dịch bệnh.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Liên hệ